Khám bệnh bằng máy đo huyết áp
I. Sơ lược lịch sử phát triển môn khí công y đạo
Khoa học nói chung và y học nói riêng luôn phát triển không ngừng. Tuy nhiên không bao giờ có cái gì hoàn thiện tuyệt đối, vì thế con người luôn tìm mọi cách để hoàn thiện những khiếm khuyết của các thành quả do mình đã sáng tạo ra để đưa xã hội loài người tiến lên.
Đông y càng cổ càng giỏi vì ngày xưa chẳng có máy móc, thiết bị gì nhưng các vị danh y chẩn bệnh và chữa bệnh như thần. Tây y càng mới càng tinh, những thiết bị máy móc hiện đại của Tây y đã giúp khâu chẩn đoán bệnh được chính xác hơn và do đó việc chữa bệnh có hiệu quả hơn.
Ngày nay Đông Y và Tây Y phát triển ở đỉnh cao, tuy vậy không phải là không có những nhược điểm trong chẩn bệnh và chữa bệnh. Một ngành Y học bổ sung ra đời để bổ sung các khiếm khuyết cho Đông y và Tây Y – đó là môn Khí Công Y Đạo Việt Nam do thầy Đỗ Đức Ngọc sáng lập (KCYĐ).
Người sáng lập ra môn KCYĐ là người Việt Nam - Thầy Đỗ Đức Ngọc. Thầy đã giảng dạy môn này ở thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1980 và truyền bá từ năm 1993 đến nay khi sang định cư tại Canada.
Khí Công Y Đạo Là một phương pháp tổng hợp của Đông y học cổ truyền bao gồm cách điều chỉnh bệnh bằng ăn uống thuộc tinh, cách điều chỉnh bệnh bằng tập luyện cơ thể để chuyển tinh lực ra khí lực thuộc khí, và cách điều chỉnh bệnh bằng phương pháp tập thở thiền là điều dưỡng tinh thần an vui hòa hợp thuộc thần. Vì tất cả nguyên nhân gây bệnh đều do xáo trộn chức năng thần kinh do ăn uống sai lầm làm tinh sai, kém tập luyện cơ thể làm khí thiếu, hoặc xáo trộn tâm lý bất thường như giận hờn, ghen ghét, lo âu, sợ hãi, buồn chán, làm việc căng thẳng qúa độ khiến thần kinh suy nhược gọi là thần suy.
Tinh sai, khí thiếu, thần suy là do tự mình làm ra. Tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh do sai lầm ăn ngủ nghỉ không điều độ và không tập luyện thân thể làm rối loạn chức năng thần kinh thì mình phải biết cách tự điều chỉnh lại những sai lầm ấy. Vì thế tập luyện Khí Công Y Đạo để tự chữa bệnh chính là cách điều chỉnh lại tinh- khí- thần theo phương pháp tự nhiên của Y học cổ truyền phương Đông.
Định nghĩa từng chữ Khí Công Y Đạo:
– Khí là hơi thở, là sự khí hoá, sinh hóa và chuyển hóa tinh thành khí, chuyển khí hóa thần.
– Công là công phu luyện tập hơi thở, công phu học hỏi để hiểu lý thuyết, biết thực hành cách chuyển tinh hoá khí, chuyển khí hóa thần.
– Y là tìm hiểu y lý nguyên nhân gây bệnh và cách điều chỉnh cho khỏi bệnh.
– Đạo là con đường hướng dẫn y lý Đông phương và là con đường tu tâm dưỡng tánh nhu hòa để bảo tồn nội lực của Tinh-Khí-Thần, nội lực của tinh là tinh lực, nội lực của khí là khí lực và nội lực của thần là thần lực.
Chúng ta thường biết đến khí công Tài Chi của Trung Quốc rút ra từ võ thuật Thái cực quyền của Tổ sư Trương Tam Phong, kết hợp giữa khí công hơi thở và động tác theo biến động âm dương trong Thái cực đồ, loại này thích hợp cho người lớn tuổi tập luyện thể lực bằng những động tác nhẹ nhàng chậm rãi dùng để dưỡng sinh.
Yoga cũng là loại khí công tập thể lực nhẹ nhành của Ấn Độ. Ngoài ra còn các loại khí công thuộc trường phái Lão học luyện hơi thở qua ba Đan điền trên cơ thể để tạo ra đời sống toàn vẹn về vật chất, tinh thần và tình cảm của con người, ba yếu tố là Tinh-Khí-Thần, lấy tâm pháp diệt ái dục để tinh đầy đủ hóa thành khí, luyện khí hóa thần, thần vững vàng không dao động sẽ hoàn đồng nhịp sinh học với môi trường thiên nhiên trong vũ trụ gọi là Thần hoàn hư.
Trường phái Phật học do Tổ sư Đạt Ma sáng lập, mục đích cường thân, kiện thể giúp thể lực khỏe mạnh để tu tâm luyện tính không trở ngại, còn có loại khí công nhẹ nhàng cho người lớn tuổi tăng cường thể lực là Đạt Ma Dịch cân kinh. Thần y Hoa Đà chế ra môn khí công phòng bệnh và chữa bệnh gọi là Ngũ cầm hí (hổ, báo, rồng, hạc, rắn) để chữa bệnh phù hợp với Ngũ tạng.
Cho đến ngày nay khí công trên thế giới đã phát triển lên đến hàng ngàn loại khác nhau, nhưng tạm chia thành bốn loại như sau:
- Khí công Yoga hoặc thiền.
- Khí công võ thuật
- Khí công dưỡng sinh phòng bệnh
- Khí công chữa bệnh
Riêng khí công chữa bệnh có hai loại:
- a) Khí công nội lực truyền khí từ thầy thuốc sang bệnh nhân giúp bệnh nhân khỏe mạnh hết bệnh tật
- b) Khí công bệnh nhân được thầy Khí công hướng dẫn phải tự tập lấy các bài tập riêng cho phù hợp với bệnh của mình để giúp cơ thể tự tạo ra thuốc từ hệ nội dược.
Khí công loại b) chính là KCYĐ.
Khí công chữa bệnh bắt đầu được nghiên cứu ở nhiều quốc gia do các bác sĩ vừa am hiểu phương pháp Tây y, vừa nghiên cứu học hỏi Đông y châm cứu, vừa luyện tập khí công qua cách thở và kiểm chứng theo tiêu chuẩn Tây y về những thay đổi của cơ thể bằng những thông số cân đong đo đếm được như thành phần máu qua những kiểm nghiệm bằng máy móc.
Ở Pháp có giáo sư bác sĩ châm cứu Nguyễn Văn Nghi đã viết, dịch và giảng dạy châm cứu theo kinh điển Hoàng đế nội kinh và viết về khí công theo cách nhìn của một nhà khoa học thực nghiệm; Bác sĩ Nguyễn tối Thiện thuộc nhóm Nghiên cứu và thực hành thiền quán ở Pháp cũng đã nghiên cứu những lợi ích cho sức khỏe khi tập thở thiền. Ở Việt Nam có giáo sư bác sĩ Ngô Gia Hy người đã tập luyện khí công để tự chữa bệnh cao áp huyết cho mình khỏi bệnh và sau đó vừa tập vừa thực nghiệm những kết qủa khi tập khí công qua những cách thở khác nhau. Từ đó giáo sư đã viết các công trình nghiên cứu để chỉ ra lợi ích của tập khí công đối với hệ hô hấp, hệ tuần hoàn , hệ tiêu hóa, hệ thần kinh, hệ nội tiết, các tuyến hạch và đối với giấc ngủ .
- Những nội dung cơ bản của Khí công Y Đạo Đỗ Đức Ngọc
Trên cơ sở mấy chục năm nghiên cứu khí công chữa bệnh, Thầy Đỗ Đức Ngọc đã đúc rút được 3 vấn đề cốt lõi và đã trực tiếp chữa cho hàng vạn người trên thế giới cả người ngoại quốc và người Việt từ các bệnh thông thường đến các bệnh nan y. Những nội dung cốt lõi của KCYD Việt Nam đó là: Điều chỉnh Tinh, điều chỉnh khí, điều chỉnh thần để luôn luôn duy trì sự cân bằng trong cơ thể con người.
Để thực hiện được những điều đó, KCYD sử dụng:
1.Điều chỉnh tinh
Điều chỉnh bằng ăn uống hoặc dùng thuốc để tăng cường thêm tinh lực cho cơ thể và luôn luôn chú ý đến vấn đề ăn uống đúng để cân bằng âm dương.
Ví dụ người huyết áp thấp thì không được ăn uống những thức ăn, đồ uống làm giảm áp huyết, ngược lại người huyết áp cao thì không được ăn thức ăn, đồ uống làm tăng huyết áp.
2.Điều chỉnh Khí
Để điều chỉnh khí sử dụng phương pháp động công.
Mục đích của động công là tập luyện cơ thể bền bỉ dẻo dai, khai thông được khí huyết ở chỗ bị bế tắc, khai mở các huyệt của Kỳ kinh Bát mạch và các luân xa theo một nhịp độ sinh học đồng bộ giữa động tác và hơi thở thuận với nhịp sinh học trao đổi chất của âm dương, khí huyết để tự nó có thể khai mở được vòng Tiểu Chu Thiên và Đại Chu Thiên trong cơ thể, nhằm tăng cường khả năng tự chữa bệnh và phòng chống bệnh cho chính bản thân và có khí lực và thần lực để chữa bệnh cho người khác mà không sợ mệt và mất khí như những thầy chữa bệnh khác.
Những bài tập động công cũng có thể áp dụng hướng dẫn cho người bệnh tập luyện nhằm tăng cường dương khí, những động tác tay chân đều theo quy luật trong âm có dương, trong dương có âm và các động tác phải phù hợp với hơi thở tùy theo mỗi trường hợp bệnh cần chữa trị.
Các thế khí công căn bản để trị bệnh thuộc phần động công, chú trọng vào sự điều chỉnh khí hóa của hệ thống Tam Tiêu, điều chỉnh thần kinh ( thần ), thông khí huyết cho lục phủ ngũ tạng, chuyển khí chạy theo vòng Nhâm-Đốc và tăng cường khí hoạt động cho Tam tiêu là Tông khí , Ngũ hành khí, Nguyên khí.
a)Khí của vùng thượng tiêu
Do Đan điền Khí vận hành bởi hơi thở của phế khí được tăng cường do hít thở sâu cho dưỡng khí vào đầy phổi được tích lũy dư thưà hơn người bình thường, chỉ những người tập thể dục thể thao hoặc tập khí công mới có được, gọi là TÔNG KHÍ, nhờ nó tích lũy được nhiều oxy trong phổi mới làm tăng được hồng cầu và tăng áp lực kích thích sự tuần hoàn của tim mạch được mạnh hơn bình thường.
b)Khí của vùng trung tiêu
Do Đan điền Thần vận hành bởi khí của lục phủ, ngũ tạng được tăng cường sự sinh hóa chủ động có kiểm soát để có thể tăng cường chức năng hoạt động của lục phủ, ngũ tạng giúp cho sự hấp thụ và chuyển hóa khí huyết lưu thông khắp các kinh mạch, gọi là NGŨ TẠNG KHÍ .
c)Khí của vùng hạ tiêu
Do Đan điền Tinh vận hành bởi Nguyên khí Tiên thiên bẩm sinh tích lũy tại Thận, được bảo vệ, duy trì và tiếp nạp tồn trữ thêm khí Hậu thiên do ăn uống. Khi tập Khí công đưa hơi thở vào
Đan điền tinh để tăng cường chức năng hoạt động của Thận làm cho Nguyên khí Tiên thiên hoạt động mạnh hơn, giúp cho sự sinh hóa, chuyển hóa tinh chất của thức ăn hóa khí, chuyển khí hóa thần giúp Thận có khả năng hoạt động khỏe và lâu bền, kéo dài tuổi thọ hơn, gọi là Nguyên khí hậu thiên do tập luyện khí công mà có được, gọi chung cả hai loại khí của thận là NGUYÊN KHÍ.
Khi ba loại Tông khí, Ngũ tạng khí và Nguyên khí cùng hòa hợp đúng và đủ mới có thể chọn lọc được cốc khí (chất bổ của thức ăn) để sinh hóa và chuyển hóa trọn vẹn cốc khí thành hai loại khí quan trọng và cần thiết cho cơ thể là khí dinh dưỡng gọi là VINH KHÍ (là cốc khí chuyển hóa thành máu nuôi dưỡng cơ thể phát triển) và khí bảo vệ gọi là VỆ KHÍ (là cốc khí chuyển hóa thành khí lực giúp máu tuần hoàn, và điều chỉnh số lượng hồng cầu, bạch cầu, huyết thanh, huyết bản, các loại hocmon các loại kháng thể cần thiết để bảo vệ cơ thể tăng cường sức đề kháng khi có bệnh).
Khí Vinh và Vệ mạnh hay yếu, lệ thuộc vào Tông khí từ Đan điền khí, tuần hoàn luân phiên qua huyệt Chiên Trung.
3.Điều chỉnh thần
Để điều chỉnh thần thực hiện tập tĩnh công.
Theo quy luật âm dương hòa hợp, tập động công là tập tăng cường dương khí và tập tĩnh công là phần âm chuyển hóa khí làm mạnh chức năng thần kinh, nhưng trong cách luyện và theo dõi hơi thở cũng thể hiện quy luật trong âm có dương, mục đích điều khiển hơi thở nhằm khai thông các đại huyệt trên mạch Nhâm-Đốc , giúp cho tinh-khí-thần hòa hợp, cùng vận hành liên tục theo vòng Tiểu chu thiên để tạo ra một hệ thống phòng chống bệnh tự động trong cơ thể. Tĩnh công phải hội đủ ba điều kiện là điều thân, điều ý, điều tức.
a)Điều thân :
Có nhiều cách tập thở ở tư thế đứng, nằm, ngồi; cách ngồi để nạp khí và cách nằm để dưỡng thần.
b)Điều ý:
Với khẩu quyết của khí công ý ở đâu khí ở đó, khí đến đâu huyết đến đó cho nên tùy theo mục đích chữa bệnh hợp với nhu cầu cơ thể cần, như muốn tăng cường sự khí hóa, cần tăng huyết, cần an thần.. ý sẽ được tập trung vào các vị trí khác nhau ở Đan điền khí, Đan điền thần, Đan điền tinh hoặc ở huyệt Mệnh môn..
c)Điều tức :
Là tập điều hòa hơi thở được tự nhiên: nhẹ, chậm, sâu, lâu, đều, tự nhiên cho thành một thói quen, nhằm khai thông các huyệt đạo trên Nhâm-Đốc mạch giúp cho tinh-khí-thần hòa hợp, cùng vận hành liên tục theo vòng Tiểu chu thiên để tạo ra một hệ thống phòng chống bệnh tự động trong cơ thể.
Điều hòa hơi thở đúng sẽ làm thay đổi chức năng co bóp của tim và nhịp tim được cải thiện ngay sau khi tập, đã được kiểm chứng đo điện tâm đồ.
Tập thở chú ý đến điều chỉnh hơi thở nhẹ, chậm, sâu, lâu, đều, tự nhiên, không gò bó không ép hơi, tạo thành nhịp thở sinh học đều đặn theo chu kỳ khoảng 6 đến 12 hơi thở ra thở vào trong một phút, sẽ giúp cho hệ thống miễn nhiễm được mạnh gấp nhiều lần hơn những người khác. Bình thường một người khỏe mạnh không bệnh tật, thở trung bình một phút được 18 hơi, nếu đến tuổi già vẫn giữ được 18 hơi thì tuổi thọ có thể sống lâu 100 tuổi. Nếu hơi thở trên 18 hơi là cơ thể đã có bệnh (thí dụ như bị thở gấp, ngắn hơi, hụt hơi trong bệnh tim mạch, suyễn, đau đớn..) thì tuổi thọ sẽ giảm.
Ngoài ra có 3 bài tập thở tĩnh công để dưỡng tâm an thần, tăng cường hệ thống thần kinh, hệ miễn nhiễm và nội tiết giúp bệnh mau hồi phục.
Đã có nhiều người tập đều đặn một thời gian, sức khỏe được cải thiện, những bệnh tật kinh niên tự biến mất dần, ít phải dùng thuốc hơn, nhất là các bệnh đau nhức chân tay, lưng gối, cảm cúm, nhức đầu, chóng mặt, dị ứng, ho hen, suyễn, áp huyết, tiểu đường. Các thế tập trong bài không có gì đặc biệt, cầu kỳ và khó nhớ, khó tập như các môn khí công khác, nhưng kết qủa thật kỳ diệu, như một phép lạ.
4.Cách khám bệnh bằng KCYD
Đông y có Bát cương (8 Cương lĩnh) để qui loại bệnh: Âm- Dương, Biểu –Lý, Hàn- Nhiệt, Hư- Thực, Bát Pháp( 8 Phương pháp) để trị bệnh: Hãn, Hòa, Hạ, Tiêu, Thổ, Thanh, Ôn, Bổ.
Khi chẩn bệnh Đông Y dùng Tứ chẩn: Vọng, văn, vắn Thiết.
Khí Công Y Đạo cũng sử dụng Bát cương , Bát pháp và Tứ chẩn nhưng theo cách riêng: Đó là sử dụng những thành tựu của Tây Y để vận dụng vào khám bệnh thay cho bắt mạch của Đ.Y và cho kết quả chính xác cao hơn và thậm chí rất ngạc nhiên mà cả Đông Y và Tây Y cũng chưa ngờ tới.
KCYD dùng 4 thiết bị sau:
1.Máy đo huyết áp
2.Máy đo đường huyết
3.Máy đo nhiệt độ cơ thể
4.Máy đo oximeter
– Xin trình bày rõ hơn về sử dụng máy đo HA để chẩn đoán bệnh
Bảng tiêu chuẩn áp huyết của người khỏe mạnh theo KCYD:
Cách chữa đúng gốc bệnh cần phải bổ sung khí, huyết cho cơ thể đầy đủ, kết qủa điều trị phải được kiểm chứng bằng máy đo áp huyết lọt vào tiêu chuẩn lứa tuổi dưới đây thì bệnh mới mau khỏi.
- Áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi) 95-100/60-65mmHg, mạch nhanh có thể >100 nhịp/ phút.
- Áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi) 100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65
- Áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi) 110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70
- Áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi) 120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75
- Áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên) 130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80
Khác với Tây Y, KCYD luôn đo huyết áp cả 2 tay để từ đó tìm ra bệnh thuộc Âm- Dương, Biểu – Lý, Hàn- Nhiệt, Hư – Thực.
KCYD đã chứng minh được bằng thực nghiệm HA trong cơ thể con người phụ thuộc vào yếu tố, trong đó có khí của Lục phủ, Ngũ tạng.
Đo huyết áp 2 tay trước và sau khi ăn 30 phút còn tìm ra được sự chuyển hóa đúng, sai của chức năng bao tử và gan. Ngoài ra KCYD còn đo HA ở hai chân để kiểm tra khí lực của chân cũng như sự đóng mở của các van tĩnh mạch chân, sự tuần hoàn máu ở chân. Người ta cứ tưởng khi đo áp huyết ở tay nào cũng giống nhau, hay đo ở chân cũng giống như ở tay đó là một sai lầm lớn, nên không phát hiện ra được những bệnh nan y. Theo Tây y, nếu 1 người có số đo HA >= 100/60 và <= 140/ 90 cho là bình thường. Thật ra đó là 1 sai lầm lớn. Huyết áp biểu hiện khí lực của một người và nó phải tăng theo tuổi ví như khi cây còn bé ta tưới 1 chén nước cây đủ sống, nhưng khi cây đã phát triển to, cành lá xum xuê, 1 chén nước không thể cung cấp đủ cho cây được, cây sẽ khô héo. Nhiều người bị chết âm thầm do huyết áp thấp mà không biết cũng như nhiều bệnh nan y cả Đông Y và Tây y tìm mãi không ra vì không nghiên cứu số đo huyết áp, nhịp tim 2 tay, 2 chân để so sánh với tiêu chuẩn của KCYD.
– Dùng súng bắn nhiệt độ có thể biết được các vùng của cơ thể cũng như các đường kinh lạc bị hàn, nhiệt, nhiều khi còn tìm ra được các bệnh nan y mà Đông Y cũng như Tây Y không tìm ra.
– Dùng máy thử tiểu đường để biết lượng đường huyết trong cơ thể cũng như trên các đường kinh có nằm trong tiêu chuẩn hay không để từ đó điều chỉnh bằng ăn uống hoặc dùng thuốc cho phù hợp. Khi cơ thể bị bệnh, đường trong huyết sẽ phân bố không đều, khi thử đường ở tay thì có thể nằm trong tiêu chuẩn, nhưng ở chỗ khác thì lượng đường có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với tiêu chuẩn, từ đó các thầy khí công có thể biết được nguyên nhân gây bệnh. Lượng đường tiêu chẩn trong máu khi đói phải từ 6 đến 8 mmol/l sau khi ăn đo được 10- 12 mmol/l mới là người khỏe mạnh.
– Dùng máy oximeter để đo lượng oxy trong cơ thể cũng như trên các đường kinh lạc để biết kinh nào thiếu khí để điều chỉnh bằng tập các bài khí công cho phù hợp.
Khi khám bệnh bằng oximeter ở các ngón chân, ngón tay, sẽ phát hiện dấu hiệu bệnh ở ngọn, thuộc cục bộ ở đầu ngón chân tay, sẽ phát hiện bệnh ở đường kinh, sẽ phát hiện bệnh trong nội tạng.
Vì Tây y đã không nghiên cứu kỹ về kinh mạch như đông y, nên đã có sai lầm cứ tưởng khi đo oxy, ở ngón tay hay ngón chân hay bất kỳ nơi nào trong cơ thể cũng đều giống nhau, nên việc đo ở những ngón tay khác hay ở ngón chân không cần thiết, nhưng thật ra nó rất quan trọng để khám định bệnh.
BÀI 2 : CHỮA BỆNH KHI CHƯA BỆNH
Đối với tây y khi có bệnh mới chữa thì đã qúa muộn. Do đó cần phòng bệnh bằng cách tự mình theo dõi kết qủa đo áp huyết hay xét nghiệm máu sẽ thấy được dấu hiệu đang bị bệnh như :
Ở tuổi lảo niên, có số đo áp huyết tiêu chuẩn là :
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Nhưng khi mình thấy cơ thể lão suy, mệt mỏi, mất sức, khó ngủ, tiêu hóa kém,, đo áp huyết từ 140, một vài tháng sau cứ xuống dần 135, bác sĩ nói tốt, xuống đến 130, bác sĩ nói tốt, đến 125 bác sĩ nói tốt quá, đến 115 bác sĩ nói tốt qúa, đến 110 cũng tốt qúa, đến 105 bác sĩ nói quả1à tốt, không bao giờ sợ bị tai biến mạch máu não, xuống đến 100 bác sĩ nói qúa lý tưởng, mọi người đều ao ước có số đo áp huyết lý tưởng như bác. Đến 95, là do hậu qủa của việc dùng thuốc trị bệnh cao áp huyết kéo dài, bệnh nhân đi cấp cứu ở bệnh viện mới biết bệnh nhân bị xuất huyết nội tạng và ung thư.
Tôi đã có một người bạn vẫn uống thuốc chữa cao áp huyết, thỉnh thoảng có đến tôi khám xem tại sao dạo này anh hay mệt, tôi đo áp huyết và đã cảnh báo anh mỗi lần áp huyết thấp dần, anh lại đi khám một bác sĩ gia đình là một người bạn rất thân với anh để lưu ý với anh sự khuyến cáo của cách khám bệnh đông y khí công. Hôm sau anh lại đến tôi cho biết bác sĩ bạn anh cho biết áp huyết tốt, một tuần lễ sau anh mệt phải nhập viện và đã lìa bỏ thế gian trong một cơn hôn mê sâu.
Đối với đông y khám bệnh bằng bắt mạch cũng đã thấy khí huyết suy yếu dần, còn đối với Khí Công Y Đạo khám bệnh bằng máy đo áp huyết cũng đã thấy bằng con số cụ thể, khí huyết suy yếu, nên cả hai phương pháp đông y, và KCYĐ cũng đã phải chữa cho bệnh nhân phục hồi lại khí huyết cho lên đủ tiêu chuẩn, đó là cách chữa bệnh khi chưa bị bệnh là phương pháp phòng ngừa bệnh kịp thời.
Còn nếu theo dõi bệnh khi thử máu theo tiêu chuẩn y khoa, tuy các chỉ số thử nghiệm đều nằm trong tiêu chuẩn thì bác sĩ kết luận là tốt, nhưng bác sĩ không theo dõi diễn tiến từ đầu đến cuối để thấy có sự thay đổi giảm từ từ gần lọt ra ngoài tiêu chuẩn, sau mỗi lần thử máu, thí dụ như :
Bạch cầu : (giới hạn bình thường từ 4.5 - 10.5 ) thử nghiệm lần thứ nhất 8.0. lần thứ hai 5.0, theo lý thuyết tây y thì tốt chưa bị bệnh, đối với đông y hay khí công là đã có dấu hiệu bệnh, cần phải chữa trước khi nó bị bệnh, nếu không, khi thử nghiệm lần thứ ba bạch cầu xuống đến 3.0 tây y mới kết luận là ung thư thì qúa muộn.
Tương tự đối với hồng cầu cũng vậy :
Hồng cầu : (giới hạn bình thường từ 4.20 - 5.4 ) thử máu lần thứ nhất 5.0, lần thứ hai 4.3, đó là dấu hiệu bệnh khi chưa bệnh, đông y hay khí công đã cần phải chữa trước khi chưa bệnh, nếu không đến khi thử nghiệm lần thứ ba hồng cầu xuống 3.8, tây y mới kết luận thiếu máu hay ung thư.
Bệnh thiếu máu được xác định rõ nhất là xét nghiệm khối lượng hạt máu gọi là Hematocrit. (Hct.)
Hct : (giới hạn bình thường từ 37-47), thí dụ khi thử máu lần thứ nhất 43, lần thứ hai 38, theo đông y hay khí công đã thấy dấu hiệu bệnh, cần phải chữa, nếu không chữa phòng ngừa bệnh, đến khi thử máu lần thứ ba, nó xuống thấp lọt ra ngoài tiêu chuẩn như 30, thì tây y kết luận ung thư thì qúa muộn.
Đối với phương pháp tự khám để biết tình trạng khí huyết trong cơ thể mình bằng máy đo áp huyết là cách đơn giản nhất và chúng ta nên nhớ rằng đối với tây y không phân loại áp huyết theo tuổi nên giới hạn của áp huyết nằm trong khoảng 100 đến 140 là tốt, vì thế mà chúng ta không để ý áp huyết thay đổi trong khoảng tiêu chuẩn này, bỗng dưng từ tiêu chuẩn thấp tăng dần lên tiêu chuẩn cao hay ngược lại từ tiêu chuẩn cao giảm dần xuống tiêu chuẩn thấp, thì khi xét nghiệm máu, hồng cầu hay bạch cầu hay khối lượng hạt máu cũng thay đổi từ tiêu chuẩn cao xuống tiêu chuẩn thấp hay từ tiêu chuẩn thấp tăng dần lên tiêu chuẩn cao. Đông y khí công đã thấy trước tiến trình hình thành bệnh khí huyết thuộc thực chứng hay hư chứng cần phải chữa ngay khi nó chưa trở thành bệnh nặng.
Cũng vì lý do này, khi một người hỏi bệnh, KCYĐ không cần đến kết qủa thử máu làm tốn tiền bệnh nhân, chỉ cần bệnh nhân cho biết số đo áp huyết ở 2 tay, trước và sau khi ăn bữa ăn sáng, bữa ăn chiều là thấy được chiều hướng tiến triển của bệnh thực chứng hay hư chứng khi so sánh với bảng áp huyết tiêu chuẩn khí công.
Những bệnh nhân ở tuổi lão niên, hay trung niên, khi cho biết kết qủa áp huyết không nằm trong tiêu chuẩn lão niên hay trung niên, mà thấp trong khoảng trẻ em, đông y hay đông y khí công biết ngay bệnh nhân đó thiếu khí và thiếu máu, nhưng bệnh nhân đi khám bác sĩ xong, lại cho tôi hay là bác sĩ nói : Không bị thiếu máu. Điều đó cũng đúng vì xét nghiệm máu vẫn nằm trong tiêu chuẩn thấp. Nhưng nếu không chữa kịp, để hồng cầu và bạch cầu xuống thấp lọt ra khỏi tiêu chuẩn, không theo lời khuyên của khí công dùng thuốc bổ máu kịp thời, lúc đó áp huyết xuống đến 80 thì cả tây y lẫn khí công đều kềt luận là bệnh ung thư thì qúa muộn chữa không còn kịp.
Ngược lại những bệnh nhân ở tuổi thiếu nhi, thiêú niên, thanh niên, khi cho biết áp huyết không nằm trong tuổi thiêú nhi, thiếu niên, thanh niên mà cứ tăng dần lên tiêu chuẩn cao như lão niên, (130-140mmHg) đối với tây y vẫn cho là tốt. Nhưng theo tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi của khí công thì bệnh nhân có dấu hiệu bệnh thực chứng là cao áp huyết, nếu đi xét nghiệm máu sẽ lọt ra ngoài tiêu chuẩn cao, nên mới có bệnh cao áp huyết áp huyết mà không biết, hậu qủa là nhức đầu, mất ngủ, động kinh, chảy máu cam, bệnh autism (bệnh trẻ em hiếu động), bệnh tâm thần điên loạn mà tây y không tìm ra nguyên nhân, vì thấy những chỉ số thử nghiệm máu hay đo áp huyết đều nằm trong tiêu chuẩn.
Nếu tây y chịu khó thống kê tiêu chuẩn thử nghiệm xếp theo lứa tuổi thì sẽ chẩn đoán bệnh dễ dàng.
Thí dụ một trường hợp bệnh nhân 56 tuổi khai bệnh : Mắt nhìn bị mờ và có nhiều gân máu đỏ, ít ngủ, có nhiều đêm thức đến sáng, hay bị đau vùng thượng vì, đau từ đầu đêm đến sáng, phải uống thuốc giảm đau mới hết. Bệnh nhân cho biết kết qủa đo áp huyết sau khi ăn 30 phút : Tay trái : 111/70 - 81, Tay phải : 108/62 - 80.
Nếu so sánh với áp huyết tiêu chuẩn của khí công ở tuổi 56 là :
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
Đông y khí công kết luận thiếu khí và huyết, tay trái sau khi ăn mà vẫn bị thấp chứng tỏ chức năng bao tử không đủ khí lực co bóp chuyển hóa thức ăn (111mmHg), mạch 81 so với mạch tiêu chuẩn 70-75 là thức ăn không chuyển hóa lưu lại trong bao tử lâu trở thành nhiệt làm đau vùng thượng vị. Áp huyết tay phải chỉ chức năng hoạt động của gan, gan chứa máu. áp huyết 108 là khí hoạt động trong gan yếu không co bóp bơm máu cho tim tuần hoàn, nhịp mạch 80 cao hơn tiêu chuẩn là nhiệt, đông y gọi là can hư nhiệt, làm mắt có gân đỏ, thiếu máu nuôi mắt làm mắt mờ. Đông y kết luận âm hư sinh nội nhiệt, cơ thể thiếu máu, trong người nhiệt, không ngủ được.
Khi cơ thể thiếu khí và thiếu máu, đưa đến hậu qủa tất yếu không cần thử nghiệm máu cũng đã biết, nhưng bệnh nhân này cho biết kết qủa thử máu như sau :
Bạch cầu :4.4 (giới hạn bình thường từ 4.5 - 10.5 ) = Bạch cầu giảm.
Hồng cầu : 4.01 (giới hạn bình thường từ 4.20 - 5.4 Hồng cầu giảm.
Hct : 36.8 (giới hạn bình thường từ 37-47) =Giảm khối lượng hạt máu do thiếu máu, do xuất huyết.
Tất cả các chỉ số khác đều bình thường
Chỉ số Ft4 :1.2 (giới hạn bình thường từ 0.6 - 1.1 ) = Tăng năng tuyến giáp
Chỉ số TSH : 0.30 (giới hạn bình thường từ ` 0.34 - 5.6 Chức năng tuyến yên giảm
Kết luận của đông y khí công là thiếu máu thì dùng thuốc bổ máu, thiếu khí thì luyện tập khí công, nhưng bệnh nhân này nói, bác sĩ bảo không thiếu máu, chỉ muốn KCYĐ hướng dẫn cách chữa trị ngọn bệnh là uống thuốc gì chữa mất ngủ, uống thuốc gì chữa mờ mắt, uống thuốc gì chữa đau thượng vị.
Nếu chữa ngọn, bệnh này chữa khỏi, bệnh áp huyết tụt xuống thấp nữa trở thành thiếu khí huyết trầm trọng lúc đó trở thành bệnh ung thư bao tử và bệnh viêm gan.
Nên đông y khí công cần chữa gốc bệnh để phòng ngừa không bị ung thư bao tử hay viêm gan bằng cách bổ sung máu cho cơ thể, và tập luyện những bài tập khí công tăng cường oxy để duy trì công thức máu khỏi bị mất máu, tập bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mền Bụng 200 lần sau mỗi bữa ăn để bao tử hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành chất bổ máu, loại bỏ cặn bã và độc tố ra khỏi cơ thể nhanh, bài này ép bao tử và gan, ruột kích thích chức năng co bóp, bao tử sẽ hết nhiệt hết làm đau tức thượng vị, gan hết có dấu hiệu cứng gan chai gan, không bị liệt ruột làm tiêu chảy hay táo bón, thông khí toàn thân, gan mạnh và hết nhiệt trong gan, mắt sẽ sáng trở lại, sau khi tập Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm bụng thì áp huyết xuống thấp, phải tập tiếp bài Nạp Khí Trung Tiêu 5 lần làm tăng áp huyết lên trở lại, và bài Cúi Ngửa 4 Nhịp giúp cung cấp máu lên nuôi não và mắt.
Cho nên cách khám bệnh và chữa bệnh theo Khí Công Y Đạo, cần phải đo áp huyết ở 2 tay và 2 chân tương đương với kết qủa thử nghiệm máu của tây y, rất cần thiết để hướng dẫn cách tự chữa bệnh và phòng bệnh trước khi trở thành bệnh nan y khó chữa.
BÀI 3: HUYẾT ÁP THẤP - MỨC ĐỘ NGUY HIỂM KHÔNG HỀ NHỎ.
Trong khi nhiều người lo sợ vì huyết áp cao thì ngược lại rất ít người quan tâm tới huyết áp thấp. Bất kỳ sự tăng, giảm nào quá so với mức bình thường đều nguy hiểm.
Huyết áp thấp thường gặp nhất ở người ít vận động, những người làm việc văn phòng, phụ nữ sau sinh, người cơ thể suy yếu trong một thời gian dài.
Sau đây là tiêu chuẩn huyết áp theo độ tuổi của KHÍ CÔNG Y ĐẠO.
Tuổi thiếu nhi (5 tuổi - 12 tuổi);
95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60-120.
Tuổi thiếu niên (13 tuổi - 17 tuổi);
100-110/60-65 mmHg, mạch tim đập 60-70
Tuổi thanh niên ( 18 tuổi - 40 tuổi);
110-120/65-70 mmHg, mạch tim đập 65-70
Tuổi trung niên ( 41 tuổi - 59 tuổi );
120-130/70-80 mmHg, mạch tim đập 70-75
Tuổi lão niên ( 60 tuổi trở lên);
130-140/80-90 mmHg, mạch tim đâp 70-80
Nếu so sánh với bệnh huyết áp cao. Huyết áp thấp trước mắt không dẫn đến biến chứng như tai biến mạch máu não, nghẹn tắc cơ tim ..... Nên nhiều người rất chủ quan với căn bệnh này. Tuy nhiên ít người biết được rằng huyết áp thấp có thể gây ra biến chứng nguy hiểm còn hơn thế.
Tất cả những tế bào trong cơ thể được nuôi bằng máu do khí dẫn máu nhờ vào áp lực đẩy của quả tim, khi áp lực đẩy máu yếu thì huyết áp thấp, thiếu máu, lúc đó mạch nhịp tim đập nhanh, sẽ có dấu hiệu chân tay lạnh, trong người nóng. Những hậu quả của bệnh thiếu khí, thiếu máu trở nặng thêm khi đo huyết áp càng ngày càng tụt xuống thấp so với những lần đo trước dẫn đến 1 loạt hậu quả khác nhau như ăn không tiêu, hồi hộp khó thở tim đập nhanh, chân tay lạnh, chóng mặt, yếu sức, mất ngủ hoặc có thể là trầm cảm, tiêu chảy hay táo bón giả do ruột liệt không co bóp đẩy phân....
Lâu ngày hàng loạt tế bào không được máu đến nuôi dưỡng sẽ bị hủy hoại gây ra căn bệnh nan y khó chữa, tế bào chết dần sẽ trở thành tế bào ung thư.
Như vậy muốn khỏi bệnh, việc quan trọng là cứ lấy khí và huyết để nuôi tế bào hoạt động được đầy đủ, có nghĩa là cần ưu tiên bồi bổ khí và huyết để chữa gốc bệnh,